Đề tài: Xây dựng và phát triển nguồn nhân lực KH&CN tỉnh An Giang - Thực trạng và giải pháp

Thứ tư - 23/12/2015 10:30
Phát triển khoa học công nghệ, đặc biệt là phát triển nguồn nhân lực khoa học và công nghệ là một trong những vấn đề quan trọng hàng đầu đối với quá trình xây dựng đất nước, hướng đến mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Ngày nay, trong xu thế toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, cùng với sự phát triển nhanh chóng của cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, đội ngũ trí thức trở thành nguồn lực đặc biệt quan trọng, tạo nên sức mạnh của mỗi quốc gia trong chiến lược phát triển. Nguồn nhân lực khoa học và công nghệ càng giữ vai trò quan trọng hơn trong việc thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội, văn hóa, chính trị, đồng thời góp phần giải quyết các vấn đề xã hội, như bất bình đẳng, đói nghèo, các vấn đề về môi trường, nâng cao chất lượng cuộc sống của con người. Nghị quyết số 27/NQ-TW của Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương khóa X về xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước: “đầu tư cho nhân lực khoa học và công nghệ, đãi ngộ người tài là đầu tư cho phát triển bền vững, trực tiếp nâng tầm trí tuệ và sức mạnh của dân tộc”. Đại hội Đảng lần thứ XI tiếp tục nhấn mạnh quan điểm này: “Phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao là một đột phá chiến lược, là yếu tố quyết định đẩy mạnh phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ, cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng và là lợi thế cạnh tranh quan trọng nhất, bảo đảm cho phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững…Chú trọng phát hiện, bồi dưỡng, phát huy nhân tài,; đào tạo nhân lực cho phát triển kinh tế tri thức”[1]. Đảng và Nhà nước đã đưa ra chủ trương, chính sách lớn nhằm phát huy tiềm năng sáng tạo của đội ngũ cán bộ khoa học và công nghệ, trọng dụng nhân tài. Khoa học và công nghệ trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp quan trọng, thành một trong những trụ cột đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020. Trong thời gian qua với sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng, Nhà nước, sự quan tâm của xã hội, khoa học và công nghệ nói chung và nguồn nhân lực khoa học và công nghệ nói riêng đã đạt được những thành tựu quan trọng về quy mô. Nhà nước đầu tư phát triển các tổ chức, tập thể khoa học và công nghệ mạnh, tăng cường cả về số lượng và chất lượng, đội ngũ làm công tác nghiên cứu khoa học và ứng dụng công nghệ, đặc biệt là trong các lĩnh vực công nghệ cao, khoa học mới. Nhiều chương trình, nhiệm vụ khoa học và công nghệ cấp quốc gia cũng được thực hiện. Đặc biệt là 3 Chương trình quốc gia: Chương trình phát triển sản phẩm quốc gia đến năm 2020; Chương trình quốc gia phát triển công nghệ cao đến năm 2020; Chương trình đổi mới công nghệ quốc gia đến năm 2020. Tiềm lực khoa học và công nghệ từng bước được cải thiện, đã kiện toàn tổ chức, hình thành tổ chức khoa học và công nghệ và mạng lưới nghiên cứu mạnh. Nhiều địa phương, tổ chức, doanh nghiệp đi tiên phong trong ứng dụng và đổi mới công nghệ. khoa học và công nghệ đã góp phần quan trọng thúc đẩy tăng năng suất, chất lượng và khả năng cạnh tranh của sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ, tăng kim ngạch xuất khẩu và tăng trưởng của các ngành, lĩnh vực trọng yếu của nền kinh tế. Ba khu công nghệ cao quốc gia tại Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh, Đà Nẵng được tiếp tục đầu tư. Lượng giao dịch công nghệ và thiết bị năm 2013 đạt 5.482 giao dịch, tăng 33,5% so với năm 2012 với tổng giá trị giao dịch 2.746 tỷ đồng, tăng 13,5% (Báo cáo tại Hội nghị tổng kết công tác năm 2013, triển khai nhiệm vụ năm 2014 do Bộ Khoa học và Công nghệ).

Bên cạnh đó, vẫn còn một số khó khăn, hạn chế cần khắc phục như: hoạt động khoa học và công nghệ chưa thực sự trở thành động lực then chốt cho phát triển kinh tế - xã hội; việc đào tạo, trọng dụng, đãi ngộ cán bộ khoa học và công nghệ còn nhiều bất cập; đầu tư xã hội cho khoa học và công nghệ còn thấp, hiệu quả chưa cao; cơ chế quản lý hoạt động khoa học và công nghệ chưa đáp ứng yêu cầu; thị trường khoa học và công nghệ phát triển chậm, chưa gắn kết chặt chẽ kết quả nghiên cứu, ứng dụng và đào tạo với nhu cầu sản xuất, kinh doanh và quản lý. Chính vì vậy cần thiết phải có chính sách định hướng, quy hoạch phát triển khoa học và công nghệ, phát triển nhân lực khoa học công nghệ phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước nói chung và ở các tỉnh nói riêng, trong đó có An Giang.

An Giang là tỉnh nằm phía Tây Nam của Việt Nam, là vùng đất đầu nguồn sông Cửu Long. Phía Đông giáp tỉnh Đồng Tháp, Đông Nam giáp thành phố Cần Thơ, phía Tây giáp Kiên Giang và Tây Bắc giáp Campuchia. Với diện tích tự nhiên 3.537 km²; dân số 2.144.159 người (ngày 01 tháng 4 năm 2009). Là tỉnh có nguồn lao động trẻ dồi dào trong những năm qua, nguồn nhân lực ở tỉnh đã không ngừng phát triển cả về chất và lượng. Đã có những đóng góp tích cực vào quá trình phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh với mức tăng trưởng bình quân giai đoạn 2006 - 2010 đạt trên 10,3%, GDP bình quân đầu người năm 2010 đạt trên 21 triệu đồng. Tỉnh An Giang hiện nay được xem là đang trong thời kỳ “cơ cấu dân số vàng”, đây được xem là tín hiệu vui của tỉnh. Trong thời gian qua lãnh đạo tỉnh đã hỗ trợ cho 18 đơn vị sự nghiệp, 16 doanh nghiệp, 7 đơn vị hành chính xây dựng hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn quốc tế ISO 9000, ISO 14.000, HACCP... và nâng cao hiệu quả hoạt động TBT. Từ đó, đã góp phần tích cực trong việc tạo uy tín và nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường. Bên cạnh đó, An Giang là một trong ba tỉnh nằm trong vùng Tứ giác Long Xuyên với vị trí địa lí chiến lược cho phát triển kinh tế - xã hội cũng như vị trí địa chính trị của tỉnh.

Tứ giác Long Xuyên là một vùng đất hình tứ giác, trên địa phận của ba tỉnh Kiên Giang, An Giang và Cần Thơ. Bốn cạnh của tứ giác này là biên giới Việt Nam - Campuchia, vịnh Thái Lan, kênh Cái Sắn và sông Hậu. Tứ giác Long Xuyên là vùng đất rộng lớn với tổng diện tích hơn 470.000 ha, với dân số khoảng 1,6 triệu người. Tứ giác Long Xuyên chẳng những có ý nghĩa chiến lược đối với phát triển kinh tế, xã hội mà còn đảm bảo an ninh quốc phòng, bảo vệ chủ quyền quốc gia (nhiều cửa khẩu, đường biên giới tiếp giáp nước bạn Campuchia dài). Với vị trí địa chính trị đó, việc phát huy những điểm mạnh mang tính đặc thù của An Giang sẽ tạo động lực cho sự phát triển kinh tế, xã hội khu vực miền Tây trong mối quan hệ với vùng kinh tế trọng điểm phía Nam.

Mặc dù có nhiều lợi thế về kinh tế, xã hội, địa chính trị, song chất lượng nguồn nhân lực khoa học và công nghệ ở An Giang vẫn còn thấp so mặt bằng chung của vùng Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) và cả nước, chưa đáp ứng yêu cầu phát triển và hội nhập. Theo đánh giá tại Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh An Giang lần thứ IX:“Nhiều chỉ tiêu xã hội của tỉnh còn thấp so với khu vực Đồng bằng sông Cửu Long; xã hội hoá lĩnh vực văn hóa - xã hội, môi trường gặp nhiều lúng túng. Quy mô, chất lượng phát triển giáo dục và đào tạo chưa tương xứng với yêu cầu phát triển; tỷ lệ huy động học sinh đến trường còn thấp, phổ cập giáo dục thiếu vững chắc. Hệ thống cơ sở dạy nghề còn thiếu và yếu...”; đội ngũ cán bộ khoa học còn ít về số lượng và hạn chế về năng lực, chưa đáp ứng được yêu cầu của sự phát triển. Việc phân bố nhân lực và cơ cấu trình độ chưa hợp lý theo vùng, miền và lĩnh vực hoạt động. Chúng ta còn thiếu cán bộ đầu ngành giỏi, các “kỹ sư trưởng”, đặc biệt là thiếu cán bộ khoa học và công nghệ trẻ kế cận có trình độ cao. Chưa sử dụng và phát huy được trí tuệ của lực lượng trí thức, chuyên gia khoa học. Phần lớn nhân lực khoa học và công nghệ hiện đang tập trung làm việc ở khu vực nhà nước, trong khu vực tư nhân và doanh nghiệp còn rất thấp. Tinh thần hợp tác nghiên cứu và kỹ năng làm việc nhóm của cán bộ khoa học và công nghệ còn chưa cao, việc hình thành các nhóm nghiên cứu liên ngành còn chậm. Thiếu sự hợp tác giữa các nhà khoa học đứng đầu các nhóm nghiên cứu. Điều kiện làm việc, chế độ đãi ngộ và trang thiết bị nghiên cứu của nhiều tổ chức khoa học và công nghệ chưa đáp ứng được yêu cầu cho hoạt động nghiên cứu. Hầu hết các tổ chức khoa học và công nghệ là các đơn vị sự nghiệp, nhưng lại đang được áp dụng cơ chế quản lý như đối với cơ quan quản lý hành chính với chế độ tiền lương còn nhiều bất hợp lý. Hạn chế này triệt tiêu động lực sáng tạo của các nhà khoa học, không khuyến khích sự toàn tâm gắn bó với sự nghiệp khoa học của tỉnh. Những hạn chế đó đã ảnh hưởng rất lớn đến phát triển nguồn nhân lực khoa học và công nghệ cũng như sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.

Để phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh An Giang trong điều kiện hội nhập quốc tế ngày càng sâu và phát huy thời cơ “vàng” của cơ cấu dân số cấn hình thành quy hoạch phát triển nguồn nhân lực khoa học và công nghệ một cách toàn diện, cả về trí lực, thể lực, tâm lực phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Xây dựng chiến lược phát triển nguồn nhân lực khoa học và công nghệ của tỉnh hướng đến năm 2020 căn cứ trên nhiều vấn đề có ảnh hướng đến vị trí của An Giang trong bức tranh tổng thể của khu vực đồng bằng sông Cửu Long, trong đó có việc tạo nên thế liên kết giữa An Giang và các tỉnh trong khu vực, mở ra liên kết quốc tế về phát huy các nguồn lực, tiếp cận với vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, nhất là với thành phố Hồ Chí Minh, qua đó thúc đẩy sự phát triển nhiều mặt của tỉnh An Giang nhằm đạt được mục tiêu kinh tế - xã hội trung hạn và dài hạn. Nói khác đi, phát triển nguồn nhân lực của tỉnh An Giang trong điều kiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế không chỉ là vấn đề của riêng An Giang, mà còn của khu vực, hòa nhịp cùng sự phát triển nguồn nhân lực khoa học và công nghệ cả nước. Vì thế phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao của An Giang đòi hỏi sự nỗ lực của Đảng bộ, chính quyền, các tổ chức khoa học - công nghệ, các nhà khoa học cả trong và ngoài tỉnh, nghĩa là cần đến sức mạnh và tính hiệu quả của sự liên kết vùng, liên kết khu vực. Mặt khác, việc hình thành chiến lược và kế hoạch phát triển nguồn nhân lực khoa học và công nghệ tỉnh nhà không thể không tính đến các yếu tố văn hóa, tôn giáo, dân tộc và các yếu tố địa chính trị đặc thù của địa phương. Đây là điều quan trọng gắn với lợi thế so sánh của tỉnh, thể hiện mối quan hệ biện chứng giữa cái phổ biến và cái đặc thù trong quan điểm phát triển xã hội. Xác định được điểm mạnh và điểm yếu, thời cơ và thách thức, hình thành chiến lược, kế hoạch, lộ trình và giải pháp phát triển nguồn nhân lực khoa học và công nghệ có tầm quan trọng sống còn đối với sự phát triển tổng thể, lâu dài của tỉnh An Giang.
Từ những lý do trên, chúng tôi chọn vấn đề “Xây dựng và phát triển nguồn nhân lực khoa học và công nghệ tỉnh An Giang - Thực trạng và giải pháp” làm đề tài nghiên cứu khoa học.
 
 

[1] Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr. 120

Nguồn tin: Liên hiệp Khoa học Kinh tế - Đô thị Nam bộ

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết
Mã bảo mật   

Hỗ trợ trực tuyến
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây